Thứ Tư, 13 tháng 6, 2012


Bà Bao Công nhỏ

 Tặng chị Nguyễn Thị Tú, Thẩm phán Toà Dân sự, TAND Tối cao.


Vừa chân ướt chân ráo về, Tú đã bị ông Chánh án huyện căn vặn: 
- Cô với bị cáo có quan hệ gì với nhau không? Tại sao, hôm nay xử bị cáo, cô làm Thư ký mà cô lại tỏ ra thân mật, đèo bị cáo như vậy?
- Dạ, cháu không có quan hệ gì đâu. Chỉ là, chỉ là… Tú lắp bắp giải thích với ông chánh án. Rồi, Tú tự hỏi, mà mình làm như vậy có sai không?
Ngày đó Tú vừa tốt nghiệp lớp đại học pháp lý, được điều về một Tòa án huyện vùng trung du. Hôm đó, Tú được phân làm Thư ký cho một phiên lưu động ở một xã xa trung tâm. Trời mùa hè nắng như đổ lửa, trải cái nóng bỏng như chảo rang trên con đường đất Tú đến nơi xử án. Trên đường đi, Tú gặp một thanh niên đang cuốc bộ. Tú đã dừng lại cho người thanh niên đó đi nhờ. Trên đường đi Tú mới biết, đó là Mùa A Tráng, là bị cáo trong vụ án mà cô là thành viên xét xử. Cũng vì thương anh ta đi đầu trần mà cuốc bộ vội…  
Chỉ là lòng thương người, mà Tú bị ông Chánh án thay, không cho làm Thư ký phiên xử đó nữa. Tú khóc rưng rức. Nhưng, đó là bài học đầu đời khi bước chân vào nghề. Tú nhớ lại… Chuyện đó đã ba mươi năm rồi còn gì. Hôm nay, khi vừa làm chủ tọa phiên tòa, là phiên kết thúc năm mà Tú cứ bần thần chuyện xưa…
Trong phòng xử án, mọi người đã ra về hết, không còn tiếc khóc van lơn của bị cáo khi bị tuyên, không còn tiếng ồn ào của đám đông dự khán… Chỉ còn mình Tú ngồi thừ trên bàn chủ tọa, vắng và yên ắng đến lạnh người. Vẫn là chốn pháp đình, với những hàng ghế đen nhẵn bóng, mòn vẹn do đã bao người ngồi, bao số phận con người đã được định đoạt. Tú xách cặp lững thững bước ra ngoài sân tòa. Bóng tối nhập nhoạng. Chả còn ai. Không còn cái ồn ào của những phiên tòa chật ních người đến dự, bây giờ chỉ có tiếng lá xà cừ, lá sấu rơi nhẹ trên sân tòa. Bác bảo vệ đến gần: “Ô, chị chưa về à. Tôi đã định đóng cửa…” Tiếng bác bảo vệ làm chị gật mình dừng dòng nghĩ suy, trở về với thực tại.
Về tới nhà, chị để chiếc cặp trên bàn mà mặt mày cứ bần thần, căng thẳng như chính mình bị hỏi cung. Chị nghĩ về phiên tòa phúc thẩm hôm nay, xử một vụ án giết người. Một con bé oshin, đang tâm giết hai vợ chồng ông cụ già, để lấy đi mấy trăm triệu trong két sắt.
Trong đời thẩm phán của mình, có những vụ án thoáng qua, nhưng cũng có không ít vụ án để lại dư chấn, làm chị đau nhói trong tim. Chị tuyên án xong mà thấy trong lòng nặng trĩu và mệt nhoài. Lúc nghị án, hội đồng xét xử gồm 5 người thì 4 người bỏ phiếu tử hình, còn một phiếu chung thân là của chị.  Quyết định một án tử hình luôn là không hề đơn giản, trái tim chị đã nhiều lúc run rẩy vì đau cho những phận người. Khi tuyên án con bé này tử hình, giọng chị đã lạc đi. Về nhà, bên chồng và bên đứa con yêu, chị ngồi thừ ra không ăn cơm. Đứa con chỉ nhìn mẹ rồi nhìn ba:
- Hay là ba có lỗi gì với mẹ. Hay là mẹ ốm, mẹ ốm thế nào thì cũng phải nói ra chứ? Mẹ cứ làm thế ba con con sợ lắm. Hay là ba có lỗi gì với mẹ? Anh cũng tự hỏi:
- Em ơi, hay anh có lỗi gì với em? Mấy hôm anh đi công tác phía Nam, theo kế hoạch là một tuần về, nhưng sau do công việc phát sinh, chưa giải quyết xong nên về không đúng như nói với em. Em cho anh xin lỗi nhé! Đừng giận anh mà tội nghiệp anh! Chị cứ nghe anh giãi bày như vậy, mà cười thầm trong lòng: “Ai giận anh chứ, chồng em ngoan như vậy thì ai thèm giận”. Nhưng chị buồn, nên chả nói ra, khiến anh càng lo thêm. Anh lại giảng giải tiếp:
- Em làm thẩm phán mà em chả nhân đạo tý gì, anh đã có lỗi anh xin lỗi rồi mà em không khoan hồng. Pháp luật của chúng ta rất nhân đạo mà, em xử người ngoài thì nhân đạo còn với anh thì hình như là không?  Anh dù thỉnh thoảng ông tác xa dài ngày như vậy, nhưng không hề làm điều sai với em. Em mà cứ đọc báo, nghe người ta nói là “ăn chả ăn nem”, hay ngoại tình gì đó là không đúng đâu. Anh xin thề là anh chưa khi nào phản bội em. Em cứ im lặng làm anh sợ lắm! Anh nói thế làm chị không chịu được, chị nói:
- Khổ lắm phu quân của em ơi, chưa khảo mà anh đã cung khai. Anh là bị cáo hơi bị ngoan đấy. Chủ tọa đã hỏi đâu mà khai nhiều thế, khai thật thà để được khoan hồng à. Anh có lỗi nào đâu. Em buồn và bị stress là việc khác, việc cơ quan.
Chuyện gì vậy, vụ xử hôm nay làm gì mà khiến chị day dứt vậy: Bị cáo giết người, nó là con bé còn tuổi “teen” cùng quê, đồng hương với mình nữa chứ. Đó là vùng quê nằm trên dòng sông Hóa. Con bé nhà quê, vốn chăm chỉ hạt bột, có năm lên phố làm oshin mà nó thay đổi đến thế. Nó đua đòi ăn chơi, lại bập vào yêu một thằng tóc đỏ hue… Nghe theo người yêu nó giết gia chủ, ăn cắp tiền đi chơi Valentine. Chị run lên vì giận dữ, cứ nhìn cái mặt nó cứ câng câng lên, trả lời chủ tọa cứ tưng tửng chả có cảm xúc... Thôi, cho nó tử hình. Một quyết định khó khăn. Bao đêm thao thức nghiên cứu hồ sơ vụ án, chị đã không ngủ được. Chồng chị hỏi, “em đi ngủ thôi, thức khuya là hại sức khỏe lắm! Em có điều gì muộn phiền à, anh có thể giúp gì?”. Anh gặng hỏi, chị chỉ ậm ừ.
Đọc hồ sơ rồi chị nhớ lại bằng tuổi nó bây giờ, cũng ở vùng quê ấy, chị đang đi học. Khi đó hai chị em, sống cùng mẹ và ông bà nội. Mẹ tảo tần nuôi hai chị em ăn học, và chăm sóc ông bà nội, vì ba chị đi “B” vào Nam chiến đấu. Ba là công an vũ trang, được phái vào Nam thực hiện nhiệm vụ đặc biệt. Khi đi, ông chỉ nói: “Con ở nhà mạnh giỏi. Con bảo em con cũng phải học giỏi, ba đi rồi ba lại về…”. Tiễn cha nơi phố huyện nghèo, Tú còn nhìn theo cha vẫy vẫy tay thì đoàn xe với những người lính mặc áo xanh với mũ tai bèo đi khuất. Nước mắt Tú rịn ra dàn dụa… Đó là lần chia tay ba cuối cùng, ba không về với ba mẹ con nữa, không về với ông bà nội nữa. Bị cáo hôm nay, con bé này cùng quê nghèo ấy đã làm tuổi ấu thơ của chị hiện về như vậy. Nó bằng tuổi chị khi ấy, mà lại đang tâm giết người…
            Xử xong vụ án này, chị như rạc người đi. Anh phải đi cắt mấy thang thuốc bắc về cho chị uống, cho lại người. Chị nói, em chả có bệnh gì đâu, anh và con đừng có lo, em hay cả nghĩ, chỉ nghĩ ngợi linh tinh tý thôi, rồi em sẽ ổn. Chị nói với chồng và con là về thăm quê, vì công việc bận rộn nên lâu chưa về quê. Về quê cũng là về miền êm ái, là cách để lấy lại thăng bằng, như sau bất kỳ những va đập nào nơi phố thị. Quê chị, bên bờ sông Hóa rất đẹp. Chị ngồi trên bờ đê, gió thổi mát rượi mà bao nhiêu kỷ niệm ấu thơ hiện về, với những ngày vừa ôm sách học bài vừa trông trâu, còn thằng em nghịch ngợm hay thả diều trên triền đê với những rặng tre ngăn ngắt. Con sông Hóa hiền hòa, tuy cũng có năm lũ lụt đe dọa cả làng. Hôm nay triền đê hoang hoải gió, và cái nắng hanh hao, như đưa lại những kỷ niệm từ xa xưa…  Năm ấy, chị trọ học ở trường huyện cách nhà hơn 10 cây số, mà đi bộ. Năm ấy là đại hồng thủy, nước lũ về tràn qua mặt đê, cánh đồng Cổ Cò của làng ngập trắng nước. Mẹ và em trai chạy ra ngoài đình chỗ đất cao, khóc đứng khóc ngồi vì đứa con đi học chưa về. Bà lo. Chồng hi sinh chiến trận, đứa con là cục vàng cục bạc, nó có mệnh hệ nào thì bà sao sống nổi.
Từ những bức thư từ chiến trường xa của ba, chị đọc cho cả nhà nghe ấy, mà nuôi dưỡng tình yêu văn học nơi chị. Trong các khối lớp, chị luôn là học sinh giỏi văn. Những bài văn của chị luôn được cô giáo đọc làm mẫu cho cả lớp, và những bài thơ đăng báo tường. Chị thi vào khoa văn thế rồi, run rủi hay định mệnh thế nào người ta lại được phân chị vào khoa pháp lý. Trên giảng đường, chị nhớ lời thầy dạy: “Các anh các chị, khi đứng là chủ tọa phiên tòa, là thẩm phán, khi xét xử thì “nhân danh nước CHXHCN Việt Nam”, có ngành nào lại nói rõ là “nhân danh” cả một đất nước mấy chục triệu người, với lịch sử văn hiến 4 ngàn năm không? Anh chị vinh dự vậy thì phải tỏ ra xứng đáng. Anh chị nên nhớ, ngay khi chúng ta đang ngồi đây học tập thế này, thì có hàng triệu người con trai con gái lớp lớp ra chiến trường để bảo vệ Tổ quốc, để các anh các chị có đất nước mà nhân danh đấy! Phải biết tự hào về cái nghề nghiệp của mình”. Ba chị, là một trong cái lớp lớp người ấy, ông đã hi sinh ngoài chiến trường để bảo vệ Tổ quốc, kỷ niệm ấy in đậm trong tâm trí, trong cuốn sổ nhật ký bằng thứ giấy đen màu rơm vàng lại càng vàng hơn qua thời gian. Không ngờ, thay vì yêu văn học, trái tim nhạy cảm của chị bắt đầu yêu ngành Tòa án, vô tình và giản dị thế.
            Nếu như người ta nói, sau người đàn ông thành đạt thì hậu phương là người phụ nữ đảm đang, thì cả anh chị đây đều thành đạt và đều là hậu phương vững cho nhau. Anh khen và yêu chị vì chị nữ tính, một người con gái giàu tình cả. Điều đó cũng làm anh ngạc nhiên, tính cách của chị như vậy mà làm ngành tòa án, có vẻ tréo ngoe! Và cả đám bạn từ hồi học phổ thông ở quê, cũng không ai ngờ, chị lại là thẩm phán, là một quan tòa ở trung ương, có quyền sinh quyền sát trong tay với bao số phận con người. Khi về họp lớp, cùng mấy người bạn học thăm lại thầy giáo làng năm xưa, thầy giáo cứ nắm tay Tú mà rằng, thầy không ngờ cô bé học giỏi văn, làm thơ rất hay và cũng hay nhút nhát, có lần thầy chỉ mắng nhẹ cũng đã khóc ty tỷ thế mà bây giờ làm bao công xử án.

            Chị bàn với chồng:
- Em chỉ còn công tác vài năm nữa. Khi nghỉ hưu, anh cho phép em làm những gì em thích nhé?
- Tất nhiên rồi, anh luôn ủng hộ em. Anh nói.
- Là thế này, em ý định mở một văn phòng luật tại nhà. Tất nhiên văn phòng luật không vì mục đích kinh doanh, mà để tư vấn pháp lý miễn phí cho những người nông dân nghèo nhưng trình độ hạn chế. Em đau lòng lắm, khi nhiều người nông dân rất nghèo từ các tỉnh rất xa, lên Hà Nội kiện cáo, mà xuất phát từ những lý do không đâu vào đâu. Rồi người ta tố cáo vượt cấp, gửi đơn tố cáo đến cơ quan không đúng chức năng, hay vượt cấp, làm cho xã hội cứ rối tinh lên không đáng có. Xã hội muốn phát triển phải chăm lo cho cái gốc, công lý phải được tôn trọng, đó là mục đích của việc xây dựng nhà nước pháp quyền. Việc bảo đảm công lý, kỷ cương xã hội, nơi người thấp cổ bé họng là nhiệm vụ và thước đo sự tiến bộ của một nhà nước. Trước kia, ở Thăng Long, nhà vua cho đặt chiếc trống gọi là trống Đăng Văn, để có người dân nào bị oan ức thì cứ gióng ba hồi thì nhà vua sẽ trực tiếp ra xét xử. Tất nhiên khi đó xã hội đâu có phức tạp như bây giờ, xã hội càng phát triển thì các rường mối quan hệ càng phức tạp… Nhiều vụ mà người dân phạm do vô tình không hiểu pháp luật, mà bị vướng vào vòng lao lý.
            - Ôi, em ơi. Em bỏ nghề Thẩm phán, làm nghề Tuyên giáo cho anh đấy à! Đêm cuối năm, khi cả nhà vừa ăn tất niên, chuẩn bị đón giao thừa, chị ôm anh, nói:
- “Em xin lỗi anh, vì em cả nghĩ, vì em đã mang cái lo nghĩ về nhà mình. Chúng ta đã thống nhất, việc cơ quan cứ để cơ quan, không đem về gia đình nhỏ của mình rồi. Nhưng em…”.
 - Ồ vậy à, thế mà anh cứ tưởng em giận anh cái vụ anh đi công tác lâu ngày, rồi bồ bịch với cô nào. Mà bà Bao Công nhỏ của anh! Làm Bao Công phải cứng rắn lên chứ, em mà yếu đuối thì bọn tội phạm nó cười cho đấy! Chị đấm thùm thụp vào lưng chồng.
Ngoài kia, giao thừa đang về, đem theo mùa xuân tới.

                                                                       

                                              

1 nhận xét: